Ngô giống Việt: Chưa đủ lực để cạnh tranh

Hiện có nhiều đơn vị nghiên cứu ngô giống cung cấp cho nông dân. Tuy vậy, các đơn vị cung ứng ngô giống của Việt Nam chỉ đáp ứng được 58% - 60% thị phần trong nước và dừng lại ở hoạt động nghiên cứu – lai tạo.

Là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa, và là cây vụ đông chính nên từ lâu, cây ngô đã trở lên quen thuộc với người nông dân. Với hơn 1,1 triệu hecta diện tích trồng ngô hiện có, trung bình mỗi năm nước ta cần khoảng trên 20.000 tấn ngô giống.

Chiếc bánh chia đôi

uy nhiên, theo ông Mai Xuân Triệu, viện trưởng Viện nghiên cứu ngô, các đơn vị cung ứng ngô giống của Việt Nam chỉ đáp ứng được 58% - 60% thị phần trong nước, số còn lại là giống của các công ty nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài. Điều đáng nói là, thị phần đó diễn ra trong bối cảnh nước ta có khá nhiều đơn vị có bộ phận chuyên trách nghiên cứu, lai tạo giống ngô. Trong đó phải kể đến Viện nghiên cứu ngô (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam); Công ty cổ phần giống cây trồng miền Nam; Công ty cổ phần giống cây trồng Trung ương; Viện Khoa học và kỹ thuật nông nghiệp miền Nam; Viện Di truyền nông nghiệp...

Bên cạnh đó, theo nhận định của ông Đinh Công Chính (Phòng Cây lương thực, Cục Trồng trọt, Bộ NN - PTNT) nhìn vào thực tế hiện nay thì trong tương lai gần, các đơn vị cung ứng ngô giống trong nước cũng chưa thể mở rộng thêm thị phần để có thể cạnh tranh với các đơn vị cung ứng ngô giống nước ngoài.

Đồng tình với ý kiến trên, TS. Lê Hưng Quốc, phó Chủ tịch Hiệp hội Giống cây trồng Việt Nam tỏ ra băn khoăn hơn khi cây trồng biến đổi gene được thừa nhận và trồng rộng rãi ở Việt Nam vào năm 2011: “Cây trồng biến đổi gene sẽ nâng cao sản lượng lên nhưng cùng với nó là cạnh tranh cũng gay gắt hơn. Với điều kiện và tiềm lực như hiện nay, thì ngô giống Việt sẽ gặp rất nhiều khó khăn so với các doanh nghiệp nước ngoài”.

Hiện nay, đứng đầu trong việc cung ứng ngô giống phải kể đến Viện nghiên cứu ngô nhưng mỗi năm, viện cũng chỉ cung ứng được khoảng 3.500 tấn - 4.000 tấn, chiếm 90% lượng giống của Việt Nam. Khiêm tốn hơn sản lượng của Viện nghiên cứu ngô, Viện khoa học kỹ thuật miền Nam chỉ cung ứng được từ 200 -  300 tấn ngô giống. Các đơn vị khác thì chỉ có thể cung ứng từ vài chục đến 100 tấn ngô giống mỗi năm.

Nguyên nhân do đâu?  

Theo số liệu năm 2008, diện tích trồng ngô của cả nước (trong đó 90% diện tích là ngô lai) đạt khoảng 1.126.000 ha, tổng sản lượng đạt trên 4.531.200 tấn. Năng suất trung bình khoảng 7 - 8 tấn/ha. Ngô Việt Nam cũng đã bước đầu xuất bán sang Lào, Cam-pu-chia, Quảng Tây (Trung Quốc) nhưng số lượng còn khiêm tốn.

Theo ông Phan Xuân Hào, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu ngô thì các giống ngô trong nước có năng suất và chất lượng không thua kém các giống ngô của nước ngoài, giá thành lại rẻ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, do hệ thống kho bãi chưa được trang bị hoàn chỉnh nên công tác phơi sấy, bảo quản ngô giống còn nhiều hạn chế.

Bà Trần Thị Ánh Nguyệt, Phòng nghiên cứu cây thức ăn gia súc - tiền thân là Phòng nghiên cứu Ngô, Viện khoa học kỹ thuật miền Nam cho rằng, sản lượng ngô giống còn khiêm tốn do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân quan trọng nhất là thiếu nguồn nhân lực và kinh phí. Bà Nguyệt nhận định, với bộ phận chuyên trách chỉ có 10 người và kinh phí để sản xuất 100 tấn ngô giống tốn khoảng trên 2 tỉ đồng như hiện nay thì quy trình từ nghiên cứu - lai tạo đến cung ứng giống cho bà con nông dân, đơn vị này chỉ có thể nghiên cứu và lai tạo thành công, còn giai đoạn tiếp theo là cung ứng thì phải chuyển giao cho doanh nghiệp.

Điều có thể thấy rõ là, các viện nghiên cứu gặp nhiều khó khăn trong công tác thị trường. Trong khi nhiều doanh nghiệp nước ngoài có thể làm hoàn chỉnh từ A - Z (nghiên cứu - lai tạo - sản xuất - tiếp thị- quảng cáo và đưa ra thị trường) thì phần lớn các đơn vị trong nước chủ yếu dừng lại ở nghiên cứu - lai tạo. Thiếu nhân lực chuyên nghiệp trong hoạt động thị trường, cơ sở vật chất hạn chế, thiếu kinh phí cũng là những vấn đề các đơn vị cần tháo

Theo www.kinhtenongthon.com.vn